Khám phá đất nước Thái Lan - P1: Tổng quan về Thái Lan

12/04/2017 15:15 +07 - Lượt xem: 87127

Kết quả hình ảnh cho tổng quan THái Lan

Vương quốc Thái Lan (tiếng Thái: ราชอาณาจักรไทย Racha-anachakra Thai), thường gọi là Thái Lan, là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía Bắc giáp Lào và Myanma, phía Đông giáp Lào và Campuchia, phía Nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman. Lãnh hải Thái Lan phía Đông Nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía Tây Nam giáp với lãnh hải Indonesia  và Ấn Độ ở biển Andaman.

Thái Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến đứng đầu là vua  Vua Thái Lan theo nghi thức là nguyên thủ, tổng tư lệnh quân đội và nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo của đất nước. Đức vua mới của Thái Lan là Maha Vajiralongkorn Bodindradebayavarangkun vừa kế ngôi phụ thân ông, Vua Bhumibol Adulyadej vừa qua đời hồi tháng 10/2016. Vua Bhumibol Adulyadej là vị vua nổi tiếng, được toàn dân yêu kính, ông lên ngôi từ năm 1946, vị nguyên thủ quốc gia tại vị lâu nhất trên thế giới và vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan.

Thủ đô Băng Cốc là thành phố lớn nhất và là trung tâm chính trị, thương mại, công nghiệp và văn hóa.
Thái Lan có diện tích 513.000 km2 (198.000 dặm vuông) lớn thứ 50 trên thế giới và dân số khoảng 64 triệu người đông thứ 21 trên thế giới. Khoảng 75% dân số là dân tộc Thái, 14% là người gốc Hoa và 3% là người Malay, phần còn lại là những nhóm dân tộc thiểu số như Môn, Khmer và các bộ tộc khác. Có khoảng 2,3 triệu người nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp ở Thái Lan. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thái.
Phật giáo Thượng tọa bộ được coi là quốc giáo ở Thái Lan với tỉ lệ người theo đạo là 94,7%, tỉ lệ thuộc loại cao nhất thế giới. Người Hồi giáo chiếm 4,6% và các tôn giáo khác chiếm 0,7% dân số. Văn hóa và truyền thống Thái Lan chịu ảnh hưởng chủ yếu từ Trung Hoa và cùng với Myanma, Lào, Campuchia chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ ở mức độ ít hơn. Từ năm 1985 đến 1995, kinh tế Thái Lan phát triển nhanh và trở thành nước công nghiệp mới trong đó du lịch có những điểm đến nổi tiếng như Pattaya, Băng Cốc và Phuket và xuất khẩu đóng góp quan trọng vào nền kinh tế.

Thái Lan cũng từng được gọi là Xiêm, đây là tên gọi chính thức của nước này đến ngày 11 tháng 5 năm 1949. Từ “Thái” (ไทย) trong tiếng Thái có nghĩa là “tự do”. “Thái” cũng là tên của người Thái – hiện là dân tộc thiểu số có số dân đáng kể ở Trung Quốc, vẫn lấy tên là “Xiêm”. Từ “Thái Lan” trong tiếng Việt có xuất xứ từ tiếng Anh Thailand (trong đó land nghĩa là đất nước, xứ sở), và Thailand được dịch từ ประเทศไทย (Prathet Thai) với nghĩa là “nước Thái”.

Trong tiếng Thái, tên của Thái Lan là ราชอาณาจักรไทย (Racha Anachakra Thai). Hai chữ ราชา (Racha) và อาณาจักร (Anachakra) thì có gốc từ tiếng Phạn: Racha có nghĩa là “quốc vương”, Anachakra có nghĩa là “lãnh thổ”. Trong khi đó, ไทย (Thai) là một chữ tiếng Thái có nghĩa là “tự do”. Ý của cụm từ Racha Anachakra Thai là “Vương quốc của người tự do”. Tiếng Thái còn gọi nước Thái là เมืองไทย (Mương Thai) hay ประเทศไทย (Prathết Thai). Hai chữ Mương và Prathết có cùng nghĩa “nước của người”. Nhiều nhà ngôn ngữ học nói chữ เมือง (Mương) là đồng âm nghĩa với chữ “mường” trong tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, vương quốc này được gọi là “Thái Lan”. Từ này có gốc Hán-Việt và tiếng Anh. Đúng ra thì “Thái Lan” đến từ Thailand trong tiếng Anh nhưng ngày xưa trong tiếng Việt không phiên âm được Thailand và, do đó, phải chế ra một âm để người Việt đọc được. Các nhà Hán học ở Việt Nam dùng hai chữ Hán có cách phát âm gần với từ Thailand như các nhà Hán học ở Đông Á thường dùng: hai chữ này là “Thái Lan” (泰蘭). “Thái” (泰) được dùng để dịch âm Thai hay Tai, và cũng thường được dùng để gọi người Thái; “Lan” (蘭) dùng để dịch âm Land, như trong “Ba Lan” (巴蘭 – Poland), “Ái Nhĩ Lan” (愛爾蘭 – Ireland), v.v.

Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi An-Tai, Đông Bắc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc từ 4500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái Lan. Vào năm 1238, người Thái thành lập Vương quốc tại Sukhothai (hiện ở miền Bắc Thái Lan) gọi là Vương quốc Phật giáo Sukhothai, năm 1283 người Thái có chữ viết. Sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, và năm 1350 chuyển kinh đô xuống Ayuthaya (phía Bắc Băng-cốc 70 km) gọi là Vương quốc Ayuthaya. Hơn 400 năm người Thái tiến hành chiến tranh liên miên với Miến Điện và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt. Năm 1767, một tướng người Thái gốc Hoa, Taksin, đứng lên chống quân Miến Điện giành lại độc lập và rời đô về Thonburi, bên bờ sông Chao Phaya, đối diện với Bangkok. Vua Rama I (1782) lên ngôi và lấy Băng-cốc (Thành phố của các thiên thần) làm Thủ đô. Thời đại này gọi là Rattanakosin.

Trước năm 1932, Thái Lan theo chế độ Quân chủ chuyên chế. Sau cuộc cách mạng tư sản năm 1932 do một nhóm sĩ quan trẻ lãnh đạo, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ Quân chủ lập hiến. Ngày 10/12/1932 Vua Prachadhipok (Rama VII) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Thái Lan. Trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ 2, Thái Lan là một đồng minh của Nhật nhưng cùng lúc vẫn tồn tại một phong trào chống Nhật gọi là Seri Thai. Sau chiến tranh, Thái Lan trở thành đồng minh của Mỹ. Hơn 70 năm qua Thái Lan đã thay đổi 17 hiến pháp, nhưng Hiến pháp 1932 vẫn được coi là cơ sở. Hiến pháp gần đây nhất (thứ 18) được thông qua với cuộc trưng cầu dân ý ngày 19/8/2007, cùng với tổng tuyển cử ngày 23/12/2007, chính phủ dân sự mới của Thái Lan đã được thành lập vào ngày 06/02/2008.

Thời kỳ đầu

Các khảo cổ học đã tìm thấy tại Ban Chiang, Thái Lan nhiều công cụ đồ đồng và nền văn minh lúa nước tồn tại vào khoảng 3600 năm TCN.Các nền văn minh Malay, Mon và Khmer từng phát triển thịnh vương trên lãnh thổ Thái Lan hiện nay. Đáng chú ý là Vương quốc Srivijaya ở miền nam, Dvaravati ở miền trung và Đế chế Khmer ở Angkor. Người Thái có liên hệ ngôn ngữ với một số dân tộc tại miền Nam của Trung Quốc, và có lẽ sự di dân từ miền Nam Trung Quốc đã xảy ra rất sớm, qua phía bắc của Lào.

Vương quốc Sukhothai

Những nhóm người Thái có lẽ đã bắt đầu di cư đến vùng đất ngày nay là Thái Lan ngay từ thế kỷ thứ VIII. Người Khmer đã dùng họ làm lính từ thế kỷ XII. Nhưng khi quyền lực của người Môn và người Khmer suy yếu thì quyền lực của các vương triều khác bắt đầu tăng lên. Vào năm 1238, người Thái ở Sukhothai không chỉ từ chối đóng thuế sử dụng nước cho những lãnh chúa người Khmer mà họ còn đánh đuổi luôn những lãnh chúa đó ra khỏi vùng đất này và thiết lập nên một nhà nước mới. Vị thủ lĩnh mới là Sri Indradit chiếm lấy ngai vàng. Với các thần dân của mình, ông ta giống như một người cha hơn là một ông vua, một thủ lĩnh đáng kính hơn là một nhà cai trị độc tài. Dưới triều đức vua vĩ đại nhất của mình, vua Ramkhamhaeng (1279 ? – 1317 ?), người Sukhothai đã xâm chiếm lãnh thổ của người Khmer đến tận miền Nam Nakhon Si Thammarat. Cũng chính ông vua này đã tạo ra bảng chữ cái đầu tiên của người Thái và đã làm cho thần dân của ông hiểu rõ sự coi trọng của ông dành cho nghệ thuật. Nhưng sau cái chết của ông vào năm 1300 đã báo hiệu sự suy đồi của đế quốc Sukhothai. Thoạt đầu những tỉnh nằm quanh Sukhothai đã hủy bỏ tất cả những ràng buộc với đế quốc này. Rồi đến lượt người Môm của Pegu tấn công và chiếm một phần bán đảo Malay. Cuối cùng một nhà nước mới ra đời vào năm 1378, nó tấn công và chiếm đóng Sukhothai. Từ đó trở đi vương quốc Ayuthaya, được thành lập vào năm 1350, trở thành nhà nước hùng mạnh nhất trong số tất cả những vương quốc Thái từng tồn tại cho đến bây giờ.

Vương quốc Ayutthaya

Ayutthaya là một nhà nước mà ở đó đức Vua được xem như vị chúa tể của mọi sinh linh trong vương quốc. Thậm chí người ta phải dùng một thứ ngôn ngữ dành riêng cho hoàng gia khi nói về đức Vua hay gia đình của ngài. Tổ chức xã hội của Ayutthaya được định hình dưới triều Vua Trailok (1448 – 1488). Các quí tộc thuộc những tầng lớp khác nhau được phân loại và ban tước hiệu tùy theo họ có bao nhiêu đất; thường dân không được cho phép có những quan hệ thông thường với họ. Chế độ nô lệ rất phổ biến, mà nạn nhân thường là các tù binh chiến tranh. Bành trướng mở rộng và chiến tranh với những nước láng giềng là những sự kiện nổi bật trong hai thế kỷ đầu tiên của triều đại Ayutthaya. Sau khi tiêu diệt được Sukhothai, triều đại Ayutthaya, còn được biết đến dưới cái tên Xiêm La (Siam), bắt đầu xâm chiếm miền Nam. Vào năm 1431, Vua Boromaraja đệ nhị cướp thành phố Khmer Angkor Thom, buộc những người Khmer phải dời về Phnom Penh. Sự kiện này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Khmer trong địa hạt tôn giáo. Nhưng vương quốc Xiêm đã thất bại trong việc chinh phục vương quốc Chiang Mai ở miền Bắc. Dưới sự cai trị của Vua Tilokaraja, Chiang Mai đã đứng vững trước tất cả những cuộc tấn công của Xiêm. Trong thời gian đó, một hiểm họa mới đã nổi lên ở sườn phía Tây nước Xiêm, khi các triều vua Miến Điện đầy tham vọng bắt đầu tiến vào vùng đất này. Thậm chí Chiang Mai cũng bị rơi vào tay quân xâm lăng vào năm 1557. Còn Ayutthaya thì phải đầu hàng vào năm 1569. Xiêm trở thành lãnh thổ của Miến Điện mãi cho đến năm 1584, khi hoàng tử Naresuan nắm lấy cơ hội từ cuộc chiến tranh ở Miến Điện, ông đã tuyên bố độc lập. Naresuan lên ngôi vua vào năm 1590, và chỉ trong vòng ba năm ông đã đuổi hết người Miến Điện ra khỏi đất nước. Ông trở thành người cai trị một vùng đất mênh mông, bao gồm tất cả các vùng lãnh thổ miền Bắc và một phần của Lào. Trong thế kỷ tiếp theo, vương quốc Xiêm bắt đầu thu hút sự chú ý của người phương Tây. Những thương nhân Hà Lan đã đến buôn bán ở miền Nam Pattani từ năm 1601, và những lái buôn người Anh đã đến Ayutthaya vào năm 1612. Người Châu Âu cạnh tranh nhau nhằm giành những đặc quyền về bến cảng và buôn bán, và cuộc cạnh tranh đã lên đến đỉnh điểm dưới thời ]]Narai]] Đại đế (1656 – 1688). Vua Xiêm cử các sứ thần đến nước Pháp, và vua Pháp Louis XIV đã cử một sứ thần đến gặp vua Narai để đáp lễ. Nhưng với cái chết của Narai, người châu Âu bỗng thấy mình không còn được ưu đãi như trước nữa, trong khi đó những cuộc nổi loạn đã bùng nổ ở khắp xứ Xiêm. Ngay lập tức người Miến Điện tranh thủ cơ hội chiếm lấy miền Bắc. Vương quốc Xiêm suy yếu giờ đây không còn là đối thủ của Miến Điện nữa. Trong khi Ayutthaya đang hưởng thời kỳ ổn định cuối cùng dưới triều vua Boromakot (1733 – 1753), thì tháng 4 năm 1767 binh lính Miến Điện đã thiêu rụi kinh đô Xiêm.

Vương triều Chakri

Khi vương quốc Ayutthaya sụp đổ, một vị tướng người Xiêm có tên là Taksin cũng đang ở đó. Tập hợp những người ủng hộ mình thành một đội quân, một năm sau đó ông đã chiếm lại được thành phố, nhưng Ayutthaya đã bị tàn phá trơ trụi đến nỗi ông quyết định dời thủ đô ra xa hơn, xuôi theo dòng sông đến Thonburi. Với sự giúp sức của hai vị tướng khác là anh em Chao Phraya Chakri và Chao Phraya Surasih, Taksin đã chinh phục được các nước chư hầu hung tợn, đẩy lui sự tấn công của người Miến Điện và chiếm lại vùng miền Bắc. Nhưng những thành công liên tiếp rốt cuộc đã khiến ông ta mất hết lý trí, và trở nên tàn ác cực kỳ. Những viên tướng thuộc hạ đã truất ngôi và chém đầu ông ta vào năm 1782. Chao Phraya Chakri, thường được biết nhiều hơn dưới cái tên Rama đệ Nhất, đã trở thành vị vua mới. Ông là người khai sinh triều đại Chakri vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay. Rama đệ Nhất lại dời đô, lần này là về Bangkok, ông cho xây dựng thành phố theo kiểu mẫu Ayutthaya. Ông cũng làm hồi sinh nền nghệ thuật và văn hóa Thái Lan, một phần dựa vào trí nhớ của những người già cả đã đào thoát được khi Ayutthaya bị hủy diệt. Châu Âu thời đó đang bận rộn với cuộc chiến tranh Napoleon. Nhưng từ năm 1818, Xiêm lại mở cửa và tiếp xúc với phương Tây, bắt đầu bằng một hiệp định với người Bồ Đào Nha. Với mục tiêu chung là giành được những điều khoản buôn bán tối huệ và những đặc quyền đặc lợi khác, hai nước Anh và Mỹ đã ký kết các hiệp ước với Xiêm vào các năm 1826 và năm 1833.

Thời kỳ 1763-1932

Năm 1763 cuộc tấn công lớn nhất của người Miến Điện diễn ra. Những người Xiêm ngay lập tức phát động một cuộc phản công. Taksin, một vị tướng gốc Hán, đã tổ chức kháng chiến, đẩy lùi người Miến Điện và lập ra một thủ đô mới ở Bangkok. Từ đó ông bắt đầu cuộc chinh phục toàn bộ các dân tộc Thái. Taksin tấn công người Miến Điện ở phía bắc năm 1774 và chiếm Chiang Mai năm 1776, thống nhất Thái Lan. Năm 1782 Chaophraya Chakri phế truất Taksin khỏi ngôi vua nước Xiêm, lên ngôi và trở thành vua Rama I, lập ra triều đại nhà Chakri, tồn tại cho đến ngày nay.

Chế độ quân sự

Năm 1932, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang lập hiến. Thái Lan nắm dưới chế độ độc tài quân sự

Nền dân chủ

Nền dân chủ của Thái Lan được thành lập sau sự kết thúc của chế độ độc tài quân sự năm 1992.

Vị trí địa lý

Nằm ở trung tâm của Đông Nam Á, Thái Lan được xem là một cửa ngõ để tiếp cận các nền kinh tế mới nổi của khu vực Tiểu vùng sông Mêkong.
Thái Lan có diện tích 513.115 km2. (khoảng 127 triệu mẫu Anh). Nó có biên giới với Malaysia (phía nam), Myanmar (phía tây bắc), Lào (phía bắc đông bắc) và Campuchia (đông nam), toàn bộ bờ biển phía đông từ Campuchia sang Malaysia giáp với vịnh Thái Lan và bờ biển phía tây giáp với biển Andaman. Về mặt địa lý, đất nước được chia thành năm khu vực: vùng đồng bằng trung tâm màu mỡ, cao nguyên phía đông bắc khô cằn, vùng núi phía bắc đồng bằng ven biển ở phía đông nông nghiệp trù phú; và bán đảo phía nam.
Vị trí địa lý chiến lược của quốc gia đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh xã hội và văn hóa Thái Lan thông qua di cư của các dân tộc qua nhiều thế kỷ. Do đó Thái Lan như là một cổng vào cho các nền kinh tế đang nổi lên của khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông, vị trí của nó trong ASEAN giúp dễ tiếp cận để ngày nay được coi là thị trường kinh tế đang phát triển lớn nhất của khu vực.
Văn hóa
Là quốc gia nông nghiệp và Phật giáo, đất nước Thái Lan có một bản sắc văn hóa riêng vô cùng độc đáo.
Những nét văn hóa Thái Lan truyền thống luôn có mặt trong cuộc sống thường nhật của người dân xứ sở chùa Vàng. Đất nước Thái Lan thân thiện, lịch sự, tôn trọng nền dân chủ, sùng bái những lời dạy của Phật và tôn trọng lẫn nhau. Chính những lý do đó đã khiến cho du khách đến với Thái Lan luôn có cảm giác được chào đón, và mang lại danh tiếng về sự mến khách cho Thái Lan trên thế giới.

 

Xem thêm: 

Du lịch Thái Lan 5 ngày

 

 




Bài xem nhiều